Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Bài 36 - Công nữ Nguyễn-Phúc Ngọc-Khoa

Nguyễn-Phúc Ngọc-Khoa
(阮福玉姱)
(Theo Nguyễn Phúc Thế Phả, bà là con thứ 3 của Đức Hy Tông, em cùng mẹ với hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Kỳ và Ngọc Vạn)
Lần giở lại Việt sử, giai đoạn triều Lê trung-hưng, hai chúa Trịnh-Nguyễn phân tranh.
Nước Việt chia hai phần lãnh thổ, chúa Trịnh, Trịnh Tráng, ở đàng ngoài, chúa Nguyễn, Nguyễn-Phúc Nguyên, đàng trong, phân ranh bởi sông Gianh, giữa Hà-tỉnh và Quảng-bình.
Năm 1627, chiến tranh đàng ngoài và đàng trong bùng nổ.
Năm 1629, lưu thủ Phú-yên là văn Phong liên kết với Chiêm-thành nổi lên chống nhà Nguyễn. Chúa Sãi, Nguyễn-Phúc Nguyên sai phó tướng Nguyễn Hữu-Vinh (chồng của Nguyễn-Phúc Ngọc-Liên, con chúa Sãi. Nguyên là Mạc Cảnh-Vinh, con trai đầu của Mạc Cảnh-Huống. Được chúa Sãi ban cho họ nhà chúa. Cháu gái của Mạc Cảnh-Huống, Mạc thị Giai, là vợ của chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên) dẹp yên, đổi phủ Phú-yên thành dinh Trấn-biên. Từ cuối thế kỷ 16, người Chiêm-thành thường buôn bán với người Bồ-đào-nha, Ma-cao (thuộc địa của Bồ-đào-nha, thuộc nước Tàu). Điều này làm chúa Nguyễn-Phúc Nguyên lo ngại người Chiêm-thành liên kết với người Bồ-đào-nha chống lại mình. Cuộc hôn nhân của Nguyễn-Phúc Ngọc-Khoa và vua Po Romé giúp chúa Nguyễn-Phúc Nguyên có được sự hòa hiếu với Chiêm-thành.
Nguyễn-Phúc Ngọc-Khoa, không rõ năm sinh, năm mất, là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn-Phúc Nguyên. Theo Nguyễn-Phúc Thế-Phả, bà được gả cho vua Chiêm-thành Po Romé vào năm Tân Mùi (1631). Nhờ vào cuộc hôn nhân này, sự giao hảo giữa hai nước Việt-Chiêm được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực lượng đối phó với chúa Trịnh ở đàng ngoài, đồng thời cũng tạo nên cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía nam.
Về mặt sử liệu, hai bà Ngọc-Khoa và Ngọc-Vạn không được các nhà biên sử ghi chép. "Đại-Nam Liệt Truyện Tiền Biên" chỉ chép: Chúa Sãi có bốn người con gái, mà hai trong số đó là Ngọc-Khoa và Ngọc-Vạn đều ghi là "không có truyện".
"Generalogie des Nguyễn avant Gia-Long" (phổ-hệ nhà Nguyễn trước Gia-Long), của Tôn-thất Hân, Bùi Thanh-Vân (builletin des amies de vieux Huế, 1920) cũng ghi hai người con gái thứ của Sãi-vương, Ngọc-Khoa, Ngọc-Vạn, không có dấu tích.
 Trong ba tác phẩm: "Việt sử giai-thoại" của Đào Trinh-Nhất, "Đất Việt trời nam" của Thái văn Kiếm, "Việt-nam văn-học toàn-thư" của Hoàng-Trọng Miên, đều có viết: Người phụ nữ lấy vua Chiêm-thành Po Romé là công nữ Ngọc-Khoa, con của chúa Sãi.
Năm 1995, "Nguyễn-Phúc Tộc Thế-Phả" xuất bản tại Huế, viết phần tiểu truyện về hai công nữ Ngọc-Khoa và Ngọc-Vạn:
"Về cuộc nam-tiến, Ngài (chúa Sãi) đã dùng chính sách hòa bình, thân thiện với Chiêm-thành và Cao-miên. Năm 1620, chúa gã công-nữ Ngọc-Vạn cho vua Cao-miên là Chư Chetta (1618-1686), nên dân chúng vào làm ăn sinh sống ở vùng đất Thủy-chân-lạp của Cao-miên được thuận lợi. Năm 1631, chúa lại gã công-nữ Ngọc-Khoa cho vua Chiêm-thành Po Romé. Nhờ đó mà có sự hòa hiếu Chiêm-Việt."
Hôn nhân chính-trị nhiều nước đông-tây đã dùng. Đời triều vua nhà Lý thường đem các công chúa gả cho các tù-trưởng các bộ-lạc thượng-du bắc Việt. Các bộ-lạc ấy là những giống dân rất khó kềm chế. Nhờ đó, các vùng ấy được yên ổn. Và là lực lượng ngoại biên vững chắc vùng biên giới Hoa-Việt.
Trong sử liệu Chiêm-thành không ghi chép, nhưng truyền thuyết, tục ngữ, bài hát dân gian có ý trách cứ, cho rằng bà Ngọc-Khoa đã làm vua Po Romé trở nên mê muội, khiến Chiêm-thành sụp đổ.
- Trong bài ca Chiêm-thành: "Ni Danak Po Romé" có câu: "Vua Chiêm-thành có 3 người vợ, hai người có da nâu sậm và 1 người Việt-nam. Cả 3 người đều ghen nhau, cãi vã ồn ào trong cung điện của nhà vua."
- Cổ tích Chiêm-thành "Po Romé" ghi: Do biết tính háo sắc của Po Romé, vua ở Huế bèn chọn công chúa đẹp nhất rồi giả làm người đi buôn vào đất Chiêm-thành. Danh tiếng cô nàng xinh đẹp đến tai vua Po Romé. Vua cho vời đến và say mê, rước về làm vợ. Tức là nàng Bia-Út, hoàng hậu Út.
- Truyền thuyết Chiêm-thành, bà Ngọc-Khoa, Bia-Út, đã dùng sắc đẹp mê hoặc Po Romé, khiến ông chặc bỏ cây "Kraik", biểu tượng thiên liêng của vương quốc Chiêm-thành. Vì vậy sau đó vương quốc này sụp đổ.
- Người Chiêm-thành còn dùng tên bà Bia-Út trong câu thành ngữ để mĩa mai những người béo mập: "Béo như bà Út" (Limuk you Bia-Út). 
Vương quốc Chiêm-thành bị diệt vong, người Chiêm-thành có thái độ trách cứ, oán hận, đặt điều với bà Ngọc-Khoa là lẽ đương nhiên. Dẫu rằng Nước Chiêm mất do nhiều nguyên nhân, sự suy yếu của thể chế đưa đến chuyện mất nước là một trong những yếu tố, và người Chiêm trút sự giận giữ, cũng như đổ tội cho bà Ngọc-Khoa (vì rằng bà Ngọc-Khoa có hiện diện trong giai đoạn suy thoái của vương quốc Chiêm-thành, và Chiêm-thành vong quốc bởi những người cùng chủng tộc với bà) thì cũng không có gì lạ.
Nhưng, ở đây, vì rằng sử triều nhà Nguyễn không đề cập đến lý lịch, cuộc đời của hai vị công-nữ mà cuộc hôn phối của họ liên quan tới hai vị vua của hai triều đại nước lân bang, Chiêm-thành và Khmer, một vị trí cao trong xa hội, mẫu-nghi của cả một triều đại. Chỉ trong chuyện lưu truyền, điển tích, truyền thuyết nhân gian, hay trong các biên khảo của giới sử học, thì cũng đã xác nhận sự hiện diện cũng như xác thực sự hiện hữu của hai bà Ngọc-Vạn và Ngọc-Khoa. Cũng như chứng minh được công lao của hai bà trong công cuộc nam tiến của triều nhà Nguyễn. 

Xem bài liên kết:
Bài 1-Phả Hệ Nguyễn-Phước Tộc.
Bài 3-Phả Đồ Nguyễn-Phước Tộc

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Bài 35 - Công-Nữ Nguyễn-Phúc Ngọc-Vạn

Nguyễn-Phúc Ngọc-Vạn
(阮福玉萬)
(Theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, bà là con gái thứ 2 của Đức Hy Tông, cùng mẹ với hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Kỳ)
Tạo dựng và duy trì là ý niệm, là ý muốn của ông bà xưa nay. Nói riêng về giai đoạn nhà Nguyễn trong chuỗi dài dựng nước và giữ nước của các triều đại, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, trong sử Việt không ngừng chống giặc ngoại xâm, và phát triển, mở mang đất nước.
Giở lại sử cũ, tìm hiểu về lịch sử mở mang bờ cõi về phương nam của các triều đại sử Việt.
(Tổng hợp nhiều bài viết trên internet)

"- Kể từ thời Lê Đại Hành, nước Việt đã tiến đánh Chiêm Thành ổn định phía Nam trước khi dồn sức chống nhà Tống xâm lược.
- Đời Lý Thánh Tôn, đất nước mở rộng đến Quảng Bình và một phần Quảng Trị.
- Đời Trần Anh Tôn, nước Việt mở rộng tới Thừa Thiên (Cuộc hôn nhân giữa Huyền-Trân công chúa, 玄珍公主, 1287-1340 (con gái của vua Trần Nhân-Tông, là em gái của vua Trần Anh-Tông) và vua Chiêm-thành Chế-Mân (tiếng phạn Java: Sinhavarman III) đem lại cho nước Việt châu Ô, châu Lý (bắc Quảng-trị đến đèo Hải-vân thuộc Thừa-thiên)
- Đời Hồ Quí Ly, mở rộng đến Quảng Nam. 
- Đời Lê Thánh Tôn, chiếm một phần lãnh thổ Bồn Man, Lão Qua ở phía Tây và nhiều phần đất của Chiêm Thành ở phía nam Quảng Nam. 
- Đến đời các chúa Nguyễn thì nước Việt lấy hẳn nước Chiêm Thành. Và dần mở rộng lãnh thổ về Nam, chiếm cả vùng Thủy Chân Lạp của Kampuchea, đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Đồng Nai.
 Đó là cách duy nhất tổ tiên ta phải hành động để tăng trưởng sức mạnh của mình, để đấu tranh với các lân bang mà tồn tại. 
 Nhiều anh hùng, liệt nữ đã đóng góp trong công cuộc mở mang bờ cõi.
 Cũng như triều đại nhà Trần, các vị chúa nhà Nguyễn qua các cuộc hôn nhân với các triều vua của các nước lân bang để ổn định biên giới phía nam.
 Công nữ Ngọc Vạn được gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta 2 vào năm 1620 và được sắc phong hoàng hậu Chân Lạp. Khi vua Chey mất, hai người con của bà Chau Ponhea To rồi Chau Ponhea Nou lần lượt lên làm vua, và bà Ngọc Vạn trở thành thái hậu nước Chân Lạp.
(Công nữ  là từ để gọi con gái của một vị chúa, công chúa là con gái của vua. Sở dĩ sau này có người gọi công chúa Ngọc Vạn là cách gọi theo khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, thân phụ của vị công nữ này được nhà Nguyễn tôn phong là Hi Tôn Hiếu Văn hoàng đế.) 
 Qua quá trình 52 năm giữ vai quốc mẫu Chân Lạp, công nữ Ngọc Vạn đã làm được nhiều việc cho dân tộc Việt mà thiết tưởng không có ai khác của nước ta làm nổi:
  - Thứ nhất, xin với vua Chey cho người Việt di cư sang khai hoang sinh sống ở Mỗi Xuy (Bà Rịa) và Nông Nại (Đồng Nai) để rồi từ đó dân Việt tỏa rộng ra trên khắp miền Thủy Chân Lạp.
  - Thứ hai, xin phép cho di dân nước Việt được võ trang để tự vệ trên vùng đất Thủy Chân Lạp.
  - Thứ ba, xin phép vua Chey thành lập một sở thuế thương mại đầu tiên ở Prey Kor (Sài Gòn Chợ Lớn) làm đầu cầu chiến lược vững chắc cho chương trình di dân của người Việt vào đất Chân Lạp.
 Sau khi hai người con bà đã chết, mặc dù những người khác trong hoàng tộc thay nhau lên làm vua, bà Ngọc Vạn vẫn tiếp tục giữ ngôi vị thái hậu. Nhờ thế,  mỗi khi có chuyện tranh chấp nội bộ trong chính quyền Chân Lạp, bà Ngọc Vạn đã tham-vấn cho những người yếu thế chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Các vị vương ổn định được đất nước họ qua sự trợ giúp của các chúa nhà Nguyễn đã đền đáp bằng các tặng phẩm đất đai, giúp nhà Nguyễn mở rộng cương thổ dần về phương nam.

(Sử triều Nguyễn tránh không nhắc đến công tích lẫn nhân vật công nữ Ngọc-Vạn là để tránh các nạn can-qua về sau. Nhưng sử Kampuchea và các nhà nghiên cứu về Đông Nam Á của phương tây đều có ghi chép. Và xưa nay, lịch sử đông-tây cũng không hiếm có các phụ nữ tham-chính, cũng như các cuộc hôn-nhân làm nên sự hòa hợp giữa 2 quốc gia, cũng như khuynh loát chính trị.
 Nhưng lịch sử phát triển đất Việt không thể phủ nhận công trạng lớn lao cho đất nước của công nữ Ngọc-Vạn).

Xem bài liên kết:
Bài 1-Phả Hệ Nguyễn-Phước Tộc.
Bài 3-Phả Đồ Nguyễn-Phước Tộc