Bài viết này căn cứ vào bài viết của Hội Đồng Trị Sự Nguyễn-Phước Tộc.
Lăng
Trường Nguyên nẳm tại núi Thiên Tôn, là lăng của Đức triệu Tổ Tĩnh
Hoàng Đế (Nguyễn Cam - [Kim]), làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Hội Đồng Nguyễn-Phước Tộc đã phục chế lại ngày 28 - 10 - 2006.
Nguyễn Cam (Kim) dấy binh tại Thanh Hóa chống nhà Mạc tiếm quyền.
Phò Lê Trang Tông. Lại bị Dương Chấp Nhất đánh thuộc độc chết. Vua Lê
tặng tước Chiêu Huân Tĩnh Công, táng tại núi Thiên Tôn, huyện Tống Sơn,
Thanh Hóa. Tục truyền là được thiên táng.
Theo sách Khâm Định Đại Nam
Hội Điển Sự Lệ (tr.317), Lăng Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế, Tĩnh Hoàng hậu là
lăng Trường Nguyên, núi Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa.
Năm Mậu Thìn (1806), vua Gia Long xây phương cơ, vuông, hướng đông để làm nơi bái yết.
Năm
Nhâm Ngọ(1822), vua Minh Mệnh dựng phía tả phương cơ 1 đình bia. Dâng
bài văn bia và bài minh (bằng chữ Hán) để tưởng niệm công đức của ngài
(Chính Biên, quyển 16, năm Minh Mệnh thứ 3, tháng 7, Nhâm Ngọ)
Năm
Thiệu Trị thứ 2 (1842), nhân chuyến xa giá Bắc Tuần, vua thân yết Nguyên
Miếu, rồi đến núi Triệu Tường vọng bái lăng Trường Nguyên. Xây bia đá
khắc bài Ngự Thi.
Hai bài văn bia viết bằng chữ Hán-Nho, đọc để tham khảo và biết thêm ý văn, ý tình của bậc hiền minh đối với Tiên-Tổ.
Tham Khảo
Bài văn bia và bài Minh lăng Trường Nguyên của vua Minh Mạng
(khắc mặt trước bia, đặt để ở lăng Trường Nguyên)
長 原 陵 在 清 葩 之 肇 祥 山 我
Trường Nguyên lăng tại Thanh Ba chi Triệu Tường sơn ngã
肇 祖 靖 皇 帝 寶 衣 之 藏 也 我
Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế bảo y chi tàng dã ngã
祖 以 累 世 勳 閥 方 藜 祚 式 微 莫 氏 彊 僭 溉 然 以 討 賊 復 讎 爲 已 責 首 唱 義 旅 杙 翊 扶 正 统 藜 氏 中 興 之 業 皆 其 功 也
Tổ
dĩ lũy thế huân phiệt phương Lê tộ thức vi Mạc thị cương tiếm khái
nhiên dĩ thảo tặc, phục thù vi dĩ trách thủ xướng nghĩa lữ dực phù chính
thống Lê thị trung hưng chi nghiệp giai kì công dã.
元 和 十 四 年 神 遊 太 素 乃 陵 斯 山 其 山 勢 聳 拔 重 岡 襀 嶺 擁 其 後 江 流 瀠 迴 于 其 前 三 疊 山 莊 諸 山 對 峙 于 其 左 右 蓋 靈 秀 所 鍾 之 地 惟
Nguyên
Hòa thập tứ niên, Thần du Thái tố nãi lăng tư sơn kì sơn thế tủng bạt
trọng cương tích lĩnh ủng kì hậu giang lưu uynh hồi vu kì tiền tam điệp
sơn Trang Chư sơn đối trĩ vu kì tả hữu cái linh tú sở chung chi địa duy.
天 相 有 徳 有 所 得 以 宅 之 也 我 國 家 億 萬 年 之 業 其 始 于 此 歟 列 聖 相 承 数 百 餘 年 雖 關 河 隔 閡 而 風 雲 長 護 松 楸 青 葱 衣 也 x 我
Thiên
tướng hữu đức hữu sở đắc dĩ trạch chi dã ngã quốc gia ức vạn niên chi
nghiệp kì thủy vu thử dư Liệt thánh tướng thừa sổ bách dư niên tuy quan
hà cách ngại nhi phong vân trường hộ tùng thu thanh thông y dã ký ngã.
世 祖 高 皇 帝 憑 藉 世 徳 應 天 順 人 復 宗 社 之 讎 绁 神 人 之 憤 天 下 大 定 建 廟 于 宋 山 嘉 苗 庄 追 尊帝 號 以 長 原 名 陵 表 諸 庥 之 所 自 也
Thế
Tổ Cao Hoàng Đế bằng tạ thế đức ứng thiên thuận nhân phục tông xã chi
thù tiết thần nhân chi phẫn thiên hạ đại định kiến miếu vu Tống Sơn Gia
Miêu trang truy tôn Đế hiệu dĩ Trường Nguyên danh lăng biểu chư hưu chi
sở tự dã.
予, 小 子 纂 承 鴻 業, 思 繼 述 之 孝
幸, 已 秋 有 事 北 巡, 乃 謁 原 廟 拜 山 陵. 覽 山 水 而 知 鐘 毓 之 奇. 愬 本 原 而 感 基 勤 之 襀. 徊 瞻
望 耿 耿 有 懷 陵 之 左 爲 文 以 記 之 庶 乎 我 肇 祖 裕 後 之 慶 我 世 祖 追 逺 之 誠 並 垂 於 有 永 矣.
爰 作 銘 曰
Dư, tiểu tử toản thừa hồng nghiệp, tư kế thuật chi
hiếu hạnh, dĩ thu hữu sự bắc tuần, nãi yết Nguyên miếu bái sơn lăng. Lãm
sơn thủy nhi tri chung dục chi kì. Tố bản nguyên nhi cảm cơ cần chi
tích. Hồi chiêm vọng cảnh cảnh, hữu hoài lăng chi tả vi văn dĩ kí chi
thứ hồ ngã Triệu Tổ dụ hậu chi khánh ngã Thế Tổ truy viễn chi thành tịnh
thủy ư hữu vĩnh hĩ. Viên tác minh viết:
大 地 諸 靈, 延 我 肇 祖, 扶 x 綱 常, 宣 昭 聖 武, 義 動 鬼 神, 功 垂 宇 宙, 乘 化 而 往, 陵 于 沛 庄, 巒 水 瀠 抱, 松 楸 鬱 蒼, 英 莠 所 萃, 奕 世 而 昌, 有 命 既 集
Đại
địa chư linh, diên ngã Triệu Tổ, phù thực cương thường, Tuyên chiêu
thánh vũ, nghĩa động quỹ thần, công thùy vũ trụ, thừa hóa nhi vãng, lăng
vu bái trang, loan thủy uynh bão, tùng Thu uất thương, anh tú sở tụy,
dịch Thế nhi xương, hữu mệnh kí tập
篤 生 神 蓀, 武 功 大 定, 乃 愬 遐 源, 追 帝 立 廟, 陵 名 長 原, 莘 巳 北 巡, 駕 言 至 止, 顧 瞻 山 川, 緬 x 本 始, 勒 之 貞 岷, 垂 億 萬 世.
Đốc
sinh Thần tôn, vũ công đại định, nãi tố hà nguyên, truy đế lập miếu,
lăng danh Trường Nguyên, Tân Tỵ bắc tuần, giá ngôn chí chỉ, cố chiêm sơn
xuyên, miến x bản thủy, lặc chi trinh dân, thùy ức vạn thế.
***
Bài Ngự Thi của vua Thiệu-Trị cảm tác khi bái yết lăng Trường - Nguyên.
(Khắc mặt sau bia đặt để ở lăng Trường Nguyên)
展 謁 肇 祥 山 長 原 陵 禮 成 感 述
Triển yết triệu tường sơn Trường Nguyên lăng lễ thành cảm thuật
景 仰 彌 高 永 對 天
Cảnh ngưỡng di cao vĩnh đối thiên
凇 偢 旺 汽 日 憎 妍
Tùng thu vượng khí nhật tăng nghiên
靈 鍾 毓 慶 邦 家 大
Linh chung dục khánh bang gia đại
感 慕 基 勤 徳 化 先
Cảm mộ cơ cần đức hóa tiên
啟 佑 乾 乾 昌 厥 後
Khải hựu càn càn xương quyết hậu
崇 洪 聖 聖 耿 光 前
Sùng hồng thánh thánh cảnh quang tiền
我
國 家 發 祥 于 清 省 宋 山 縣 嘉 苗 莊. 累 世 閥 閱 奇 x 仁 漸 義 被. 時 黎 昭 宗 為 莫 氏 強 僭, 肇 祖 x
然 有 志 除 暴 安 良, 首 唱 義 骐 翊 扶 正 統. 方 黎 氏 式 微 之 際, 迎 立 莊 宗 建 元 元 和. 讫 成 中 興
永 延 黎 祚 皆 其 功 也.
Ngã quốc gia phát tường vu Thanh tỉnh Tống
Sơn huyện Gia Miêu trang. Lũy thế Phiệt duyệt kì luân nhân tiệm nghĩa
bị. Thời Lê Chiêu Tông vi Mạc thị cưỡng tiếm, Ngã Triệu Tổ khải nhiên
hữu chí trừ bạo an lương, thủ xướng nghĩa kì dực phù chính thống. Phương
Lê thị thức vi chi tế, nghênh lập Trang Tông kiến nguyên Nguyên Hòa.
Ngật thành trung hưng vĩnh diên Lê tộ giai kì công dã.
元 和 十 四 年 神 游 太 神. 陵 于 是 山, 穴 開 龍 口, 寶 衣 安 x. 饿 而 風 雲 雷 雨, 人 各 驚 及. 齊 會 集 山 石 x 巖, 草 樹 青 鬱, 蹤 跡 無 由, 峻 峙 極 目, 時 尊 為 天 尊 山.
Nguyên
Hòa thập tứ niên thần du thái thần. Lăng vu thị sơn, huyệt khai long
khẩu, bảo y an táng. Ngạ nhi phong vân lôi vũ, nhân các kinh táng, tễ
hội tập sơn thạch toản nham, thảo thụ thanh uất, tung tích vô do, tuấn
trĩ cực mục, thời tôn vi Thiên Tôn sơn.
嗣
而 我 太 祖 嘉 x 皇 帝 南 服 肇 基, x 造 邦 國, 聖 聖 相 承, 乾 乾 不 息, 深 仁 厚 澤, 累 洽 重 煕. 皇
天 眷 命 篤 生 我 皇 祖 世 祖 高 皇 帝. 天 授 神 武, x 晳 x 謨. 時 西 山 虐 焰 方 張, 黎 氏 吿 終 鼎
祚. 而 我 皇 祖 以 一 成 一 旅 復 宗 社 之 九, 雪 神 人 之 僨. 誅 西 山 賊, 席 巻 龍 編, 統 一 舆 圖, 奄 有
天 下. 追 尊 我 肇 祖 為 靖 皇 帝, 陵 曰 長 原, 奉 建 肇 祖 廟, 太 廟 于 京, 又 建 原 廟 于 沛, 用 表 慶
源 之 所 自 也.
Tự nhi ngã Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế nam phục triệu
cơ, đề tạo bang quốc, Thánh Thánh tương thừa, càn càn bất tức, thâm nhân
hậu trạch, lũy hợp trùng hy. Hoàng Thiên quyến mệnh đốc sinh ngã Hoàng
Tổ Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Thiên thụ thần vũ, duệ triết tuyên mô. Thời Tây
Sơn ngược diễm phương trương, Lê thị cáo chung đỉnh tộ. Nhi ngã Hoàng Tổ
dĩ nhất thành nhất lữ phục tông xã chi cửu, tuyết Thần nhân chi phẫn.
Tru tây Sơn tặc, tịch quyển Long Biên, thống nhất dư đồ, yểm hữu thiên
hạ. Truy tôn ngã Triệu Tổ vi Tĩnh Hoàng Đế, lăng viết Trường Nguyên,
phụng kiến Triệu Tổ miếu, Thái miếu vu Kinh, hựu kiến Nguyên Miếu vu
Bái, dụng biểu khánh nguyên chi sở tự dã.
我
皇 考 聖 祖 仁 皇 帝, 天 縱 聖 文 創 守 述 作, 明 命 二 年 親 謁 原 廟 祖 陵, 敬 封 其 山 曰 肇 祥 山, 命
築 城 圍 護 原 廟 灭 名 肇 祥 城. 乃 親 制 碑 文 勒 于 貞 珉 用 賁 前 功 而 x 萬 古.
Ngã
Hoàng khảo Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, Thiên túng Thánh văn sáng thủ thuật
tác, Minh Mệnh nhị niên thân yết Nguyên Miếu tổ lăng, kính phong kỳ sơn
viết Triệu Tường sơn, mệnh trúc thành vi hộ Nguyên Miếu, diệc danh
Triệu Tường thành. Nãi thân chế bi văn lặc vu trinh dân dụng bí tiền
công nhi thùy vạn cổ.
茲 歟 克 遵 舊 制, 親 謁 陵
廟, 景 仰 前 徽, 何 窮 感 幕, 復 覩 埤 誌, 守 澤 尙 x, 椅 歟 祖 徳 子 考 恩 予 天 地 而 長 在, 惟 思 紹
述 以 楊 前 烈 而 裕 後 昆 全 仗 我 祖 考, 保 佑 延 洪 國 家 百 世, x 敬 述 其 事 以 礻 子 孫 永 守 文 謨
武 烈 者 也
Tư dư khắc tuân cựu chế, thân yết lăng miếu, cảnh
ngưỡng tiền huy, hà cùng cảm mộ, phục đổ bi chí, thủ trạch thượng tân, Y
dư tổ đức tử khảo ân dữ Thiên Địa nhi trường tại, duy tư thiệu thuật dĩ
dương tiền liệt nhi dụ hậu côn giai toàn trượng ngã Tổ Khảo, bảo hựu
diên hồng quốc gia bách thế. Viện kính thuật kì sự dĩ thị tử tôn vĩnh
thủ văn mô vũ liệt giả dã.
祖 恩 浩 浣 情 何 已
Tổ ân hạo hoán tình hà dĩ
考 澤 如 新 淚 復 漣
Khảo trạch như tân lệ phục liên.
Bài Dịch:
Lăng
Trường Nguyên ở núi Triệu Tường, thuộc tỉnh Thanh Ba, là mộ phần của
Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế nhà ta. Triệu Tổ vốn dòng dõi nhiều đời quyền thế
có công lớn lao, nên khi cơ nghiệp nhà Lê Suy vi, họ Mạc cướp quyền đã
khẳng khái lấy việc giết giặc báo thù làm trách nhiệm của mình. Ngài đã
khởi xướng nghĩa quân trợ giúp chính thống. Cơ nghiệp trung hưng của nhà
Lê đều nhờ công lao của ngài. năm Nguyên Hòa thứ 14, Ngài về với trời
đất, rồi xây lăng tại núi đó. Địa thế núi cao vút mà đồi núi chồng chất
bao bọc phía sau, sông suối uốn khúc vây quanh phía trước, núi Tam Điệp,
núi Trang Chư sừng sững hai bên tả hữu, thật là đất un đúc linh khí. Do
trời trợ giúp người có đức nên đem đất đó để dành cho Ngài. Cơ nghiệp
ngàn vạn năm của nước ta chẵng phải khởi đầu từ đấy sao ! Tuy Liệt Thánh
kế thừa hơn mấy trăm năm, mà lăng ở nơi sông núi cách ngăn, nhưng gió
mây luôn che chở, tùng thu mãi xanh um.
Đến khi Thế Tổ cao Hoàng Đế
nhà ta, cậy nhờ ân đức nhiều đời, ứng với trời, thuận với người, đã báo
được thù cho xã tắc, trừ phẫn hận cho thần nhân, định yên thiên hạ, rồi
dựng miếu ở Gia Miêu trang thuộc huyện Tống Sơn, truy tôn Đế hiệu cho
Ngài, đặt tên lăng là Trường Nguyên để tỏ phúc lành đều do từ nơi đó.
Ta, kẻ tiểu tử kế thừa nghiệp lớn, noi theo đạo hiếu, mùa thu năm Tân Tị
nhân có việc Bắc tuần, bèn đến yết Nguyên Miếu, bái sơn lăng. Ngắm núi
sông mà biết được nơi khí thiên un đúc lạ kỳ. Ngớ đến cội nguồn mà cảm
công vất vả xây dựng cơ đồ. Bồi hồi chiêm ngưỡng, ray rức hồi tưởng nên
làm bài văn ghi nhớ đặt bên trái của lăng, khiến phúc lành của Triệu Tổ
để lại cho con cháu cùng với lòng thành nhớ đến tổ tiên của Thế Tổ nhà
ta được lưu lại mãi về sau.
"Đất chứa khí thiên - Sinh ra Triệu Tổ -
Gây dựng cương thường - Tỏ rõ Thánh võ - Nghĩa động quỷ thần - Công đầy
vũ trụ - Cỡi rồng mà đi - Lăng ở Bái trang - Núi non vây bọc - Tùng thu
xanh um - Un đúc anh linh - Lành tốt nối đời - Mệnh trời đã đến - Sinh
được cháu thần - Võ công định yên - Truy lại nguồn gốc
- Tôn Đế, lập
miếu - Tên Gọi Trường Nguyên - Tân Tị bắc tuần - Xa giá đến nơi - Ngưỡng
chiên sông núi - Nghĩ đến cội nguồn - Khắc lên bia đá - Để lại vạn đời"
Bài dịch bài Ngự Thi của vua Thiệu Trị cảm tác
Bái yết lăng Trường Nguyên ở núi Triệu Tường, sau khi lể xong cãm tác:
Cảnh ngưỡng di cao vĩnh đối thiên
Tùng thu vượng khí nhật tăng nghiên
Linh chung dục khánh bang gia đại
Cảm mộ cơ cần đức hóa tiên
Khải hựu càn càn xương quyết hậu
Sùng hồng thánh thánh cảnh quang tiền
Lớn
lao thay nước ta phát điềm lành từ trang Gia Miêu huyện Tống Sơn, tỉnh
Thanh, nhiều đời quyền thế có công lớn lao, nhân nghĩa thấm khắp. Thời
đó Lê Chiêu Tông bị họ Mạc tiếm quyền. Triệu Tổ nhà ta khảng khái có chí
trừ bạo, an dân, đứng lên dựng cờ khởi nghĩa, trợ giúp chính thống.
Đang lúc họ Lê suy tàn, Triệu Tổ đón vua Trang Tông lên ngôi, lấy niên
hiệu là Nguyên Hòa. Tạo được vận trung hưng của nhà Lê đều do công của
Ngài. Năm Nguyên Hòa thứ 14, Ngài về trời. Lăng ở tại núi này, miệng
rồng mở huyệt là nơi an táng hình hài. Phút chốc sấm sét gió mưa, ai nấy
đều kinh hoảng tán loạn. Đến khi tạnh yên thì đá chồng chất thành núi
cao, cây cỏ xanh um, chẵng biết tung tích, chỉ thấy núi sừng sững trước
mắt. bấy giờ tôn xưng là núi Thiên Tôn. Về saqu Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế
nhà ta thu phục phương nam, tạo dựng nước nhà, các Thánh nối tiếp, vườn
dài không dứt, chồng chất ân trạch, càng thêm rực rỡ. Trời cao đã chiếu
cố đã khiến sinh ra được Hoàng Tổ Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Trời cao thần vũ,
cơ mưu sáng suốt. Lúc đó Tây Sơn thanh thế bạo ngược mà vận nhà Lê cáo
chung. Nhưng Hoàng Tổ nhà ta với một đạo quân một lần ra sức mà trả được
thù cho tông miếu,gột được phẩn hận cho thần và người. Diệt giặc tây
Sơn, thu phục Long Biên mà thống nhất cơ đồ mà chiếm lấy thiên hạ. Rồi
truy tôn Triệu Tổ là Tĩnh Hoàng Đế, lăng gọi là Trường Nguyên, cho dựng
Triệu tổ miếu và Thái Tổ miếu ở kinh đô, lại dựng Nguyên miếu ở quê quán
để tỏ nguồn phước phát khởi từ đây. Hoàng Khảo nhà ta thánh Tổ Nhân
Hoàng Đế với thánh văn sáng thuật thiên bẩm, năm Minh mệnh thứ 2 tự thân
bái yết Nguyên miếu và lăng Tổ, kính phong cho núi nay là Triệu Tường,
lệnh cho xây thành bao bọc che chở Nguyên miếu, cùng gọi là Triệu Tường
thành. Rồi tự thân làm văn bia khắc vào đá để sáng tỏ công lao đời
trước mà để lại cho vạn đời sau. ta tuân theo phép cũ, tự thân đến bái
yết lăng miếu, ngưỡng trông vẻ vang của tiền nhân mà cảm mến không cùng.
lại đọc bia kí nét bút còn tươi. Đức Tổ khảo ân như trời đất mà còn
mãi, nên chỉ nghĩ đến trăm đời. bèn kính thuật sự việc để chỉ bảo cho
con cháu giữ gìn mãi rực rỡ của văn võ.
Tổ ân hạo hoán tình hà dĩ,
Khảo trạch như tân lệ phục liên.
Quần thể khu lăng miếu Triệu Tường năm 1945.
Lăng Trường Nguyên phục chế lại bởi hội đồng Nguyễn-Phước tộc.
Ngôi đình Gia Miêu.
Lăng Trường Nguyên - đình Gia Miêu - nhà thờ Gia Miêu.