Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Bài 29 - Lăng Trường-Nguyên.


Bài viết này căn cứ vào bài viết của Hội Đồng Trị Sự Nguyễn-Phước Tộc.
Lăng Trường Nguyên nẳm tại núi Thiên Tôn, là lăng của Đức triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế (Nguyễn Cam - [Kim]), làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Hội Đồng Nguyễn-Phước Tộc đã phục chế lại ngày 28 - 10 - 2006.

Nguyễn Cam (Kim) dấy binh tại Thanh Hóa chống nhà Mạc tiếm quyền. Phò Lê Trang Tông. Lại bị Dương Chấp Nhất đánh thuộc độc chết. Vua Lê tặng tước Chiêu Huân Tĩnh Công, táng tại núi Thiên Tôn, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Tục truyền là được thiên táng.
Theo sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (tr.317), Lăng Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế, Tĩnh Hoàng hậu là lăng Trường Nguyên, núi Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa.
Năm Mậu Thìn (1806), vua Gia Long xây phương cơ, vuông, hướng đông để làm nơi bái yết.
Năm Nhâm Ngọ(1822), vua Minh Mệnh dựng phía tả phương cơ 1 đình bia. Dâng bài văn bia và bài minh (bằng chữ Hán) để tưởng niệm công đức của ngài (Chính Biên, quyển 16, năm Minh Mệnh thứ 3, tháng 7, Nhâm Ngọ)
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), nhân chuyến xa giá Bắc Tuần, vua thân yết Nguyên Miếu, rồi đến núi Triệu Tường vọng bái lăng Trường Nguyên. Xây bia đá khắc bài Ngự Thi.
Hai bài văn bia viết bằng chữ Hán-Nho, đọc để tham khảo và biết thêm ý văn, ý tình của bậc hiền minh đối với Tiên-Tổ.

Tham Khảo
Bài văn bia và bài Minh lăng Trường Nguyên của vua Minh Mạng
(khắc mặt trước bia, đặt để ở lăng Trường Nguyên)

長 原 陵 在 清 葩 之 肇 祥 山 我
Trường Nguyên lăng tại Thanh Ba chi Triệu Tường sơn ngã
肇 祖 靖 皇 帝 寶 衣 之 藏 也 我
Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế bảo y chi tàng dã ngã
祖 以 累 世 勳 閥 方 藜 祚 式 微 莫 氏 彊 僭 溉 然 以 討 賊 復 讎 爲 已 責 首 唱 義 旅 杙 翊 扶 正 统 藜 氏 中 興 之 業 皆 其 功 也
Tổ dĩ lũy thế huân phiệt phương Lê tộ thức vi Mạc thị cương tiếm khái nhiên dĩ thảo tặc, phục thù vi dĩ trách thủ xướng nghĩa lữ dực phù chính thống Lê thị trung hưng chi nghiệp giai kì công dã.
元 和 十 四 年 神 遊 太 素 乃 陵 斯 山 其 山 勢 聳 拔 重 岡 襀 嶺 擁 其 後 江 流 瀠 迴 于 其 前 三 疊 山 莊 諸 山 對 峙 于 其 左 右 蓋 靈 秀 所 鍾 之 地 惟
Nguyên Hòa thập tứ niên, Thần du Thái tố nãi lăng tư sơn kì sơn thế tủng bạt trọng cương tích lĩnh ủng kì hậu giang lưu uynh hồi vu kì tiền tam điệp sơn Trang Chư sơn đối trĩ vu kì tả hữu cái linh tú sở chung chi địa duy.
天 相 有 徳 有 所 得 以 宅 之 也 我 國 家 億 萬 年 之 業 其 始 于 此 歟 列 聖 相 承 数 百 餘 年 雖 關 河 隔 閡 而 風 雲 長 護 松 楸 青 葱 衣 也 x 我
Thiên tướng hữu đức hữu sở đắc dĩ trạch chi dã ngã quốc gia ức vạn niên chi nghiệp kì thủy vu thử dư Liệt thánh tướng thừa sổ bách dư niên tuy quan hà cách ngại nhi phong vân trường hộ tùng thu thanh thông y dã ký ngã.
世 祖 高 皇 帝 憑 藉 世 徳 應 天 順 人 復 宗 社 之 讎 绁 神 人 之 憤 天 下 大 定 建 廟 于 宋 山 嘉 苗 庄 追 尊帝 號 以 長 原 名 陵 表 諸 庥 之 所 自 也
Thế Tổ Cao Hoàng Đế bằng tạ thế đức ứng thiên thuận nhân phục tông xã chi thù tiết thần nhân chi phẫn thiên hạ đại định kiến miếu vu Tống Sơn Gia Miêu trang truy tôn Đế hiệu dĩ Trường Nguyên danh lăng biểu chư hưu chi sở tự dã.
予, 小 子 纂 承 鴻 業, 思 繼 述 之 孝 幸, 已 秋 有 事 北 巡, 乃 謁 原 廟 拜 山 陵. 覽 山 水 而 知 鐘 毓 之 奇. 愬 本 原 而 感 基 勤 之 襀. 徊 瞻 望 耿 耿 有 懷 陵 之 左 爲 文 以 記 之 庶 乎 我 肇 祖 裕 後 之 慶 我 世 祖 追 逺 之 誠 並 垂 於 有 永 矣. 爰 作 銘 曰
Dư, tiểu tử toản thừa hồng nghiệp, tư kế thuật chi hiếu hạnh, dĩ thu hữu sự bắc tuần, nãi yết Nguyên miếu bái sơn lăng. Lãm sơn thủy nhi tri chung dục chi kì. Tố bản nguyên nhi cảm cơ cần chi tích. Hồi chiêm vọng cảnh cảnh, hữu hoài lăng chi tả vi văn dĩ kí chi thứ hồ ngã Triệu Tổ dụ hậu chi khánh ngã Thế Tổ truy viễn chi thành tịnh thủy ư hữu vĩnh hĩ. Viên tác minh viết:
大 地 諸 靈, 延 我 肇 祖, 扶 x 綱 常, 宣 昭 聖 武, 義 動 鬼 神, 功 垂 宇 宙, 乘 化 而 往, 陵 于 沛 庄, 巒 水 瀠 抱, 松 楸 鬱 蒼, 英 莠 所 萃, 奕 世 而 昌, 有 命 既 集
Đại địa chư linh, diên ngã Triệu Tổ, phù thực cương thường, Tuyên chiêu thánh vũ, nghĩa động quỹ thần, công thùy vũ trụ, thừa hóa nhi vãng, lăng vu bái trang, loan thủy uynh bão, tùng Thu uất thương, anh tú sở tụy, dịch Thế nhi xương, hữu mệnh kí tập
篤 生 神 蓀, 武 功 大 定, 乃 愬 遐 源, 追 帝 立 廟, 陵 名 長 原, 莘 巳 北 巡, 駕 言 至 止, 顧 瞻 山 川, 緬 x 本 始, 勒 之 貞 岷, 垂 億 萬 世.
Đốc sinh Thần tôn, vũ công đại định, nãi tố hà nguyên, truy đế lập miếu, lăng danh Trường Nguyên, Tân Tỵ bắc tuần, giá ngôn chí chỉ, cố chiêm sơn xuyên, miến x bản thủy, lặc chi trinh dân, thùy ức vạn thế.

***

Bài Ngự Thi của vua Thiệu-Trị cảm tác khi bái yết lăng Trường - Nguyên.
(Khắc mặt sau bia đặt để ở lăng Trường Nguyên)

展 謁 肇 祥 山 長 原 陵 禮 成 感 述
Triển yết triệu tường sơn Trường Nguyên lăng lễ thành cảm thuật

景 仰 彌 高 永 對 天
Cảnh ngưỡng di cao vĩnh đối thiên
凇 偢 旺 汽 日 憎 妍
Tùng thu vượng khí nhật tăng nghiên
靈 鍾 毓 慶 邦 家 大
Linh chung dục khánh bang gia đại
感 慕 基 勤 徳 化 先
Cảm mộ cơ cần đức hóa tiên
啟 佑 乾 乾 昌 厥 後
Khải hựu càn càn xương quyết hậu
崇 洪 聖 聖 耿 光 前
Sùng hồng thánh thánh cảnh quang tiền

我 國 家 發 祥 于 清 省 宋 山 縣 嘉 苗 莊. 累 世 閥 閱 奇 x 仁 漸 義 被. 時 黎 昭 宗 為 莫 氏 強 僭, 肇 祖 x 然 有 志 除 暴 安 良, 首 唱 義 骐 翊 扶 正 統. 方 黎 氏 式 微 之 際, 迎 立 莊 宗 建 元 元 和. 讫 成 中 興 永 延 黎 祚 皆 其 功 也.
Ngã quốc gia phát tường vu Thanh tỉnh Tống Sơn huyện Gia Miêu trang. Lũy thế Phiệt duyệt kì luân nhân tiệm nghĩa bị. Thời Lê Chiêu Tông vi Mạc thị cưỡng tiếm, Ngã Triệu Tổ khải nhiên hữu chí trừ bạo an lương, thủ xướng nghĩa kì dực phù chính thống. Phương Lê thị thức vi chi tế, nghênh lập Trang Tông kiến nguyên Nguyên Hòa. Ngật thành trung hưng vĩnh diên Lê tộ giai kì công dã.
元 和 十 四 年 神 游 太 神. 陵 于 是 山, 穴 開 龍 口, 寶 衣 安 x. 饿 而 風 雲 雷 雨, 人 各 驚 及. 齊 會 集 山 石 x 巖, 草 樹 青 鬱, 蹤 跡 無 由, 峻 峙 極 目, 時 尊 為 天 尊 山.
Nguyên Hòa thập tứ niên thần du thái thần. Lăng vu thị sơn, huyệt khai long khẩu, bảo y an táng. Ngạ nhi phong vân lôi vũ, nhân các kinh táng, tễ hội tập sơn thạch toản nham, thảo thụ thanh uất, tung tích vô do, tuấn trĩ cực mục, thời tôn vi Thiên Tôn sơn.
嗣 而 我 太 祖 嘉 x 皇 帝 南 服 肇 基, x 造 邦 國, 聖 聖 相 承, 乾 乾 不 息, 深 仁 厚 澤, 累 洽 重 煕. 皇 天 眷 命 篤 生 我 皇 祖 世 祖 高 皇 帝. 天 授 神 武, x 晳 x 謨. 時 西 山 虐 焰 方 張, 黎 氏 吿 終 鼎 祚. 而 我 皇 祖 以 一 成 一 旅 復 宗 社 之 九, 雪 神 人 之 僨. 誅 西 山 賊, 席 巻 龍 編, 統 一 舆 圖, 奄 有 天 下. 追 尊 我 肇 祖 為 靖 皇 帝, 陵 曰 長 原, 奉 建 肇 祖 廟, 太 廟 于 京, 又 建 原 廟 于 沛, 用 表 慶 源 之 所 自 也.
Tự nhi ngã Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế nam phục triệu cơ, đề tạo bang quốc, Thánh Thánh tương thừa, càn càn bất tức, thâm nhân hậu trạch, lũy hợp trùng hy. Hoàng Thiên quyến mệnh đốc sinh ngã Hoàng Tổ Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Thiên thụ thần vũ, duệ triết tuyên mô. Thời Tây Sơn ngược diễm phương trương, Lê thị cáo chung đỉnh tộ. Nhi ngã Hoàng Tổ dĩ nhất thành nhất lữ phục tông xã chi cửu, tuyết Thần nhân chi phẫn. Tru tây Sơn tặc, tịch quyển Long Biên, thống nhất dư đồ, yểm hữu thiên hạ. Truy tôn ngã Triệu Tổ vi Tĩnh Hoàng Đế, lăng viết Trường Nguyên, phụng kiến Triệu Tổ miếu, Thái miếu vu Kinh, hựu kiến Nguyên Miếu vu Bái, dụng biểu khánh nguyên chi sở tự dã.
我 皇 考 聖 祖 仁 皇 帝, 天 縱 聖 文 創 守 述 作, 明 命 二 年 親 謁 原 廟 祖 陵, 敬 封 其 山 曰 肇 祥 山, 命 築 城 圍 護 原 廟 灭 名 肇 祥 城. 乃 親 制 碑 文 勒 于 貞 珉 用 賁 前 功 而 x 萬 古.
Ngã Hoàng khảo Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, Thiên túng Thánh văn sáng thủ thuật tác, Minh Mệnh nhị niên thân yết Nguyên Miếu tổ lăng, kính phong kỳ sơn viết Triệu Tường sơn, mệnh trúc thành vi hộ Nguyên Miếu, diệc danh Triệu Tường thành. Nãi thân chế bi văn lặc vu trinh dân dụng bí tiền công nhi thùy vạn cổ.
茲 歟 克 遵 舊 制, 親 謁 陵 廟, 景 仰 前 徽, 何 窮 感 幕, 復 覩 埤 誌, 守 澤 尙 x, 椅 歟 祖 徳 子 考 恩 予 天 地 而 長 在, 惟 思 紹 述 以 楊 前 烈 而 裕 後 昆 全 仗 我 祖 考, 保 佑 延 洪 國 家 百 世, x 敬 述 其 事 以 礻 子 孫 永 守 文 謨 武 烈 者 也
Tư dư khắc tuân cựu chế, thân yết lăng miếu, cảnh ngưỡng tiền huy, hà cùng cảm mộ, phục đổ bi chí, thủ trạch thượng tân, Y dư tổ đức tử khảo ân dữ Thiên Địa nhi trường tại, duy tư thiệu thuật dĩ dương tiền liệt nhi dụ hậu côn giai toàn trượng ngã Tổ Khảo, bảo hựu diên hồng quốc gia bách thế. Viện kính thuật kì sự dĩ thị tử tôn vĩnh thủ văn mô vũ liệt giả dã.
祖 恩 浩 浣 情 何 已
Tổ ân hạo hoán tình hà dĩ
考 澤 如 新 淚 復 漣
Khảo trạch như tân lệ phục liên.

Bài Dịch:
Lăng Trường Nguyên ở núi Triệu Tường, thuộc tỉnh Thanh Ba, là mộ phần của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế nhà ta. Triệu Tổ vốn dòng dõi nhiều đời quyền thế có công lớn lao, nên khi cơ nghiệp nhà Lê Suy vi, họ Mạc cướp quyền đã khẳng khái lấy việc giết giặc báo thù làm trách nhiệm của mình. Ngài đã khởi xướng nghĩa quân trợ giúp chính thống. Cơ nghiệp trung hưng của nhà Lê đều nhờ công lao của ngài. năm Nguyên Hòa thứ 14, Ngài về với trời đất, rồi xây lăng tại núi đó. Địa thế núi cao vút mà đồi núi chồng chất bao bọc phía sau, sông suối uốn khúc vây quanh phía trước, núi Tam Điệp, núi Trang Chư sừng sững hai bên tả hữu, thật là đất un đúc linh khí. Do trời trợ giúp người có đức nên đem đất đó để dành cho Ngài. Cơ nghiệp ngàn vạn năm của nước ta chẵng phải khởi đầu từ đấy sao ! Tuy Liệt Thánh kế thừa hơn mấy trăm năm, mà lăng ở nơi sông núi cách ngăn, nhưng gió mây luôn che chở, tùng thu mãi xanh um.
Đến khi Thế Tổ cao Hoàng Đế nhà ta, cậy nhờ ân đức nhiều đời, ứng với trời, thuận với người, đã báo được thù cho xã tắc, trừ phẫn hận cho thần nhân, định yên thiên hạ, rồi dựng miếu ở Gia Miêu trang thuộc huyện Tống Sơn, truy tôn Đế hiệu cho Ngài, đặt tên lăng là Trường Nguyên để tỏ phúc lành đều do từ nơi đó. Ta, kẻ tiểu tử kế thừa nghiệp lớn, noi theo đạo hiếu, mùa thu năm Tân Tị nhân có việc Bắc tuần, bèn đến yết Nguyên Miếu, bái sơn lăng. Ngắm núi sông mà biết được nơi khí thiên un đúc lạ kỳ. Ngớ đến cội nguồn mà cảm công vất vả xây dựng cơ đồ. Bồi hồi chiêm ngưỡng, ray rức hồi tưởng nên làm bài văn ghi nhớ đặt bên trái của lăng, khiến phúc lành của Triệu Tổ để lại cho con cháu cùng với lòng thành nhớ đến tổ tiên của Thế Tổ nhà ta được lưu lại mãi về sau.
"Đất chứa khí thiên - Sinh ra Triệu Tổ - Gây dựng cương thường - Tỏ rõ Thánh võ - Nghĩa động quỷ thần - Công đầy vũ trụ - Cỡi rồng mà đi - Lăng ở Bái trang - Núi non vây bọc - Tùng thu xanh um - Un đúc anh linh - Lành tốt nối đời - Mệnh trời đã đến - Sinh được cháu thần - Võ công định yên - Truy lại nguồn gốc
- Tôn Đế, lập miếu - Tên Gọi Trường Nguyên - Tân Tị bắc tuần - Xa giá đến nơi - Ngưỡng chiên sông núi - Nghĩ đến cội nguồn - Khắc lên bia đá - Để lại vạn đời"

Bài dịch bài Ngự Thi của vua Thiệu Trị cảm tác
Bái yết lăng Trường Nguyên ở núi Triệu Tường, sau khi lể xong cãm tác:

Cảnh ngưỡng di cao vĩnh đối thiên
Tùng thu vượng khí nhật tăng nghiên
Linh chung dục khánh bang gia đại
Cảm mộ cơ cần đức hóa tiên
Khải hựu càn càn xương quyết hậu
Sùng hồng thánh thánh cảnh quang tiền

Lớn lao thay nước ta phát điềm lành từ trang Gia Miêu huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh, nhiều đời quyền thế có công lớn lao, nhân nghĩa thấm khắp. Thời đó Lê Chiêu Tông bị họ Mạc tiếm quyền. Triệu Tổ nhà ta khảng khái có chí trừ bạo, an dân, đứng lên dựng cờ khởi nghĩa, trợ giúp chính thống. Đang lúc họ Lê suy tàn, Triệu Tổ đón vua Trang Tông lên ngôi, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa. Tạo được vận trung hưng của nhà Lê đều do công của Ngài. Năm Nguyên Hòa thứ 14, Ngài về trời. Lăng ở tại núi này, miệng rồng mở huyệt là nơi an táng hình hài. Phút chốc sấm sét gió mưa, ai nấy đều kinh hoảng tán loạn. Đến khi tạnh yên thì đá chồng chất thành núi cao, cây cỏ xanh um, chẵng biết tung tích, chỉ thấy núi sừng sững trước mắt. bấy giờ tôn xưng là núi Thiên Tôn. Về saqu Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế nhà ta thu phục phương nam, tạo dựng nước nhà, các Thánh nối tiếp, vườn dài không dứt, chồng chất ân trạch, càng thêm rực rỡ. Trời cao đã chiếu cố đã khiến sinh ra được Hoàng Tổ Thế Tổ Cao Hoàng Đế. Trời cao thần vũ, cơ mưu sáng suốt. Lúc đó Tây Sơn thanh thế bạo ngược mà vận nhà Lê cáo chung. Nhưng Hoàng Tổ nhà ta với một đạo quân một lần ra sức mà trả được thù cho tông miếu,gột được phẩn hận cho thần và người. Diệt giặc tây Sơn, thu phục Long Biên mà thống nhất cơ đồ mà chiếm lấy thiên hạ. Rồi truy tôn Triệu Tổ là Tĩnh Hoàng Đế, lăng gọi là Trường Nguyên, cho dựng Triệu tổ miếu và Thái Tổ miếu ở kinh đô, lại dựng Nguyên miếu ở quê quán để tỏ nguồn phước phát khởi từ đây. Hoàng Khảo nhà ta thánh Tổ Nhân Hoàng Đế với thánh văn sáng thuật thiên bẩm, năm Minh mệnh thứ 2 tự thân bái yết Nguyên miếu và lăng Tổ, kính phong cho núi nay là Triệu Tường, lệnh cho xây thành bao bọc che chở Nguyên miếu, cùng gọi là Triệu Tường thành. Rồi tự thân làm văn bia khắc vào đá để sáng tỏ công lao đời trước mà để lại cho vạn đời sau. ta tuân theo phép cũ, tự thân đến bái yết lăng miếu, ngưỡng trông vẻ vang của tiền nhân mà cảm mến không cùng. lại đọc bia kí nét bút còn tươi. Đức Tổ khảo ân như trời đất mà còn mãi, nên chỉ nghĩ đến trăm đời. bèn kính thuật sự việc để chỉ bảo cho con cháu giữ gìn mãi rực rỡ của văn võ.
Tổ ân hạo hoán tình hà dĩ,
Khảo trạch như tân lệ phục liên.



Quần thể khu lăng miếu Triệu Tường năm 1945.

Lăng Trường Nguyên phục chế lại bởi hội đồng Nguyễn-Phước tộc.

Ngôi đình Gia Miêu.

 Lăng Trường Nguyên - đình Gia Miêu - nhà thờ Gia Miêu.